Theo quan điểm của Đức Thế Tôn, sự quí kính và phụng dưỡng hết lòng đối với cha mẹ là chưa đủ để nói lên công lao trời biển của hai đấng sinh thành, dù cho chúng ta có cõng cha mẹ hàng nghìn năm, hay như cái hiếu của Giang Cách đời nhà Hán cõng mẹ lánh nạn về Hạ Bì thì cũng không thấm vào đâu cả. Hiểu thì không khó nhưng xem ra việc thực thi không phải là dễ dàng, nhất là trong một xã hội thực dụng và những biến động không ngừng như ngày nay.
PHẬT
THUYẾT KINH ÂN CHA MẸ KHÓ ĐỀN ĐÁP
Hán
dịch: Tam Tạng An Thế Cao
Việt
dịch và bình giải: Thích Nữ Tịnh Quang
Nghe
như vậy, một thời Đức Thế Tôn ở
thành Xá Vệ, vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc
Viên; bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các
thầy Tỳ Kheo, cha mẹ đối với con có ân
đức vĩ đại, bú mớm un đúc, dựa vào
thời tiết để nuôi nấng con… và hình hài con
mới được trưởng thành.
Như
có người vai phải cõng cha, vai trái cõng mẹ, trãi
qua hàng nghìn năm, gặp lúc cha mẹ tiểu tiện
ở trên vai mà lòng không hề hờn giận mẹ cha;
người con này cũng chưa đền đáp đủ
ân đức của cha mẹ.
Muốn
đền đáp ân đức cha mẹ là khi cha mẹ chưa
có lòng chính tín thì khuyên bảo cha mẹ có lòng chính tín
để có được nơi an ổn từ niềm
tin đó, nếu cha mẹ chưa có tiếp nhận
giới thì khuyên nên thọ giới quy y để có
được nơi an ổn từ sư tiếp nhận
giới.nếu cha mẹ không chịu nghe giáo pháp thì khuyên
bảo họ nên nghe để có được sự an
lạc từ việc nghe đó, nếu cha mẹ tham lam thì
khuyên cha mẹ thực hành hạnh bố thí, vui vẻ
khuyến khích để cho cha mẹ có được nơi
an ổn. Nếu cha mẹ không có trí tuệ thì giúp cha
mẹ học hỏi sáng tuệ, vui vẻ khuyến khích
để họ có được niềm an lạc./span>
Như
vậy mà khuyên (cha mẹ) chánh tín đối với chư
Như lai, bậc Chí chơn đẳng chánh giác,
bậc Minh hạnh thành, Thiện thệ, Thế gian
giải, Vô thượng sĩ, Đạo pháp ngự, Thiên
nhân sư, hiệu Phật Thế tôn.[1]
Và
khuyên cha mẹ chánh tín đối với giáo pháp;
tiếp nhận giáo pháp để có được nơi
an ổn , hiểu được các pháp thậm thâm,
hiện tiền đạt được kết quả
từ ý nghĩa cao siêu đó; như thế là người
trí, mới minh thông việc (khuyên nhắc) này.
Lại
khuyên cha mẹ chánh tín với Thánh chúng (Tăng bảo).
Thánh chúng của Như lai là bậc tu hành hoàn toàn thanh
tịnh, là bậc mô phạm thường hoà hợp, thành
tựu các pháp, Thành tựu Giới, thành tựu Định,
thành tựu Trí tuệ, thành tựu Giải thoát,
thành tựu Giải thoát tri kiến.[2] máy khoan địa chất giá rẻ, máy khoan đập đá
Sở
dĩ gọi là Thánh chúng vì các vị này đã và đang
thành tựu Tứ song Bát bối [3], đó là Như lai Thánh
chúng, bậc xứng đáng tôn quý, nên tôn phụng và kính
ngưỡng, các vị Thánh chúng là ruộng phước
Vô thượng cho thế gian.
Như
thế các người con (hiếu), nên khuyên cha mẹ mình
thực hành (nếp sống) đạo từ bi.
Các
thầy Tỳ kheo thì có hai đứa con, đó là con sinh
(cho pháp) và con dưỡng (tu pháp). Như thế Tỳ
kheo có hai người con, cho nên chư Tỳ kheo cần
phải phát huy đứa con sinh của mình, nghĩa là
miệng thường phát ra lời Pháp vị, do đó
các Tỳ kheo, nên như vậy mà tu tập.
Bấy
giờ các thầy Tỳ kheo, nghe lời dạy của
Đức Thế tôn rồi, vui vẻ vâng làm.
Lời
bình:
“Thiên
kinh vạn điển, hiếu hạnh vi tiên,” câu này ai
cũng nằm lòng, nhưng xem ra việc thực thi không
phải là dễ dàng, nhất là trong một xã
hội thực dụng và những biến động
cuồng loạn như ngày nay.
Xã
hội Á đông ngày xưa thì lấy thước đo
đạo đức chuẩn mẫu của con người
xuyên qua việc hiếu đạo đối với
mẹ cha. Kinh Thi nhắc nhở: “Thương thay cha
mẹ, khổ cực nuôi ta, muốn báo thâm ân, như
trời cao lồng lộng…” (Ai ai phụ mẫu, sanh ngã
cù lao, dục báo thâm ân, hiệu thiên võng cực…) Không
dừng lại ở đây, người Trung Quốc có câu
châm ngôn: “Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”.
Trong việc tề gia, người Trung Quốc đặt
căn bản sự tôn ti trật tự và hòa ái trong gia
đình là yếu tố căn bản, đặc biệt
việc tôn kính cha mẹ là trên hết; người có
hiếu đạo mới có thể làm được
việc chính trị, đứng đầu trăm họ.
Lịch sử của Trung Quốc ghi nhận rằng,
thời đại an bình và huy hoàng nhất của Trung
Quốc là thời vua Ngu Thuấn và vua Văn Đế, trước
khi ra làm vua hai vị minh quân này đã có hiếu đạo,
tôn phụng cha mẹ cảm động đến
trời đất (Nhị Thập Tứ Hiếu).
Truyền
thống hiếu đạo nghìn đời của văn hóa
Việt nam thì được thể hiện qua câu ca dao
bất hủ:
“Công
cha như núi thái sơn
Nghĩa
mẹ như nước trong nguồn chảy ra.”
Như
thế mà hiểu, ơn cha cao vời vợi, tình mẹ thì
vô cùng…và những ai thực thi được hạnh
hiếu đều được xã hội yêu mến và
kính trọng dù kẻ đó không biết được
một chữ i tờ.
Theo
quan điểm của Đức Thế Tôn, sự quí kính
và phụng dưỡng hết lòng đối với cha
mẹ là chưa đủ để nói lên công lao
trời biển của hai đấng sinh thành, dù cho chúng
ta có cõng cha mẹ hàng nghìn năm, hay như cái hiếu
của Giang Cách đời nhà Hán cõng mẹ lánh nạn
về Hạ Bì thì cũng không thấm vào đâu cả.
Bởi vì dù cho chúng ta có lo “hơi ấm quạt
nồng,” giúp cho cha mẹ ăn ngon mặt sướng, cõng
cha mẹ đi chơi suốt năm này tháng nọ…vẫn
không giúp cha mẹ thoát được nỗi khổ đau
của thân xác như già, bệnh… và nỗi khổ đau
do vô minh nên luân chuyển trong vòng sinh tử luân hồi
bất tận.
Trong
kinh Đức Thế Tôn thường dạy: “trong
tất cả nỗi đau khổ thì vô minh chính là
sự đau khổ lớn nhất..” cho nên Đức
Thế Tôn khuyên bảo những người con hiếu
rằng, nếu thương cha mẹ thực lòng, ngoài
việc phụng dưỡng ra chúng ta nên khuyến khích
cha mẹ tiếp nhận giới, pháp và tu tuệ, chỉ
có cha mẹ mình đi đúng trên con đường tam vô
lậu học như thế mới có thể bước
ra khỏi bóng tối đêm dài của vô minh, là nơi an
ổn nhất, nơi hạnh phúc nhất để nương
tựa khi tuổi xế chiều.
Ngày
nay ở các nước Tây phương (nhất là Hoa
Kỳ) thì cha mẹ già yếu là trọng trách của xã
hội và của chính quyền hơn là người con. Văn
hóa Á châu cũng đã thay đổi, ở Việt Nam không
ít cha mẹ già cả cảm thấy cô đơn bèn
đến chùa để tìm nguồn an ủi tâm hồn
thì may ra mới năn nỉ được con mình cùng
đến chùa ! Phải chăng thời đại vật
chất đã lấn át những giá trị cao quý của
tinh thần?
Theo
lời dạy của Đức Thế Tôn, người
Phật tử muốn làm tròn hiếu đạo phải có
trách nhiệm giúp cha mẹ thoát khổ được vui;
không phải là cái vui mà Lão Lai đời Xuân Thu làm
hề cho cha mẹ cười cả ngày, đây chỉ là
cái vui của nhất thời, mà là tạo điều
kiện cho cha mẹ có được niềm an vui lâu dài
từ việc rủ bõ tham-sân-si khi quay về nương
tựa tam bảo.
Khi
còn trẻ mẹ cha chúng ta đã vắt kiệt tuổi
xuân để lo cho con cái, khi nhan sắc đến độ
hoàng hôn, thân xác già nua thì họ có mặc cảm vô
dụng, đứng bên xó xỉnh cuộc đời…chúng
ta không thể làm bất cứ điều gì để
khỏa lấp nỗi buồn mênh mang đó (!). Cách duy
nhất là khuyên bảo cha mẹ có lòng tin đối
với Phật, Pháp và Tăng. Khi cha mẹ có chánh tín
đối với Phật, họ sẽ nhân ra được
khả năng giác ngộ vốn có của mình. Khi cha
mẹ có chánh tín đối với Pháp, họ sẽ tìm
thấy con đường tu tập để vượt
thoát sinh tử luân hồi và có được hạnh phúc
chân thật. Khi cha mẹ có chánh tín đối với Tăng,
họ sẽ nhận ra được tánh giác thanh
tịnh của mình. Người Phật tử vâng lời
Phật dạy mà khuyên bảo cha mẹ quay về Tam
bảo thì không còn hiếu hạnh nào hơn.
Đức
Thế Tôn là một đặc trưng cụ thể
của tấm gương hiếu hạnh này. Sau khi thành
đạo Ngài đã đem giáo pháp độ cho vua cha, trước
lúc băng hà nhờ tiếp nhận giáo pháp mà vua
Tịnh Phạn chứng đắc Tu Đà Hoàn quả;
song song việc này Ngài lại lên cung trời Đao
Lợi thuyết pháp để độ cho mẹ; và
đặc biệt Ngài đã tiếp nhận Di mẫu và
năm trăm nữ Xá Di của hoàng tộc xuất gia và
đều chứng đắc Thánh quả A La Hán.
Đối
với Mạnh Tử thì “bất hiếu có ba, không con
nối dõi là lớn nhất” (bất hiếu hữu
tam, vô hậu vị đại-Hiếu Kinh); khác với
thế gian, Đức Thế Tôn đặt nặng
vấn đề giải quyết những nỗi đau
khổ tinh thần cho cha mẹ ngay khi cha mẹ còn sống
“Phụ mẫu Tại đường như Phật
tại thế”; những người xuất gia là
biểu tượng của lòng hiếu đạo, bởi
vì họ không ràng buộc bởi tình thương yêu
đối với vợ (chồng) con, mục đích
của hàng Tăng bảo là “thượng cầu
Phật đạo hạ hoá chúng sinh,” chúng sinh ở
đây trước hết là cha mẹ hiện đời,
và sau đó là cha mẹ của nhiều đời; đó
là ý nghĩa cao cả nhất của hiếu đạo.
Thay
vào đó Đức Thế Tôn xác nhận rằng, người
xuất gia không phải là kẻ “vô hậu,” mà mỗi
thầy Tỳ Kheo đều có hai người con cần
phải nuôi nấng, đó là con sinh và con dưỡng. Con
sinh: nghĩa là người xuất gia phải biết sáng
tạo, phải biết nói (viết, thể hiện) ra pháp
vị để lợi lạc hữu tình. Con dưỡng:
nghĩa là người xuất gia phải tu tập
giới (thiền)- định-tuệ để nuôi dưỡng
huệ mạng của mình. Hai người con mà Đức
Thế Tôn nói trong kinh sẽ tiếp nối giòng giống
thánh làm cho Phật pháp cửu trụ ta bà, chúng sinh (là
cha mẹ thân bằng quyến thuộc của chúng ta
nhiều đời) nhờ đó mà được
thấm nhuần mưa pháp an lạc; Như thế mới
gọi là đền đáp đầy đủ
thâm ân cha mẹ.
________________________________________________
Chú
giải:
[1]
Mười Đức hiệu của Phật (Mục Tư
Vấn-GNO):
1)
Như Lai (S.Tathàgata), bậc nương vào Chân như (Như)
mà đến (Lai) và thành Chánh giác. Theo kinh Kim Cang, Như
Lai có nghĩa là “Vô sở tùng lai, diệc vô sở
khứ”, không từ đâu đến và cũng chẳng
về đâu, hàm ý từ bản thể Chân như (hiện
ra) và có mặt cùng khắp mọi nơi. Khi nói về mình,
Phật Thích Ca xưng là Như Lai.
2)
Ứng Cúng (S.Arhat), bậc xứng đáng thọ nhận
sự cúng dường của trời và người.
Ứng Cúng còn là một đức hiệu của các
bậc thánh A-la-hán (phần kinh văn thiếu.)
3)
Chánh Biến Tri (S.Samyak-sambuddha), bậc có khả năng
hiểu biết (Tri) đúng đắn (Chánh) và cùng
khắp (Biến) tất cả các pháp (phần này trong
kinh văn gọi là Chí chơn đẳng chánh giác.)
4)
Minh Hạnh Túc (S.Vidyà-carana-sampanna), bậc trí tuệ và phước
đức vẹn toàn. Minh là trí tuệ (Thiên nhãn minh, Túc
mạng minh, Lậu tận minh). Hạnh là phước
đức, tức các hạnh nghiệp đều toàn
thiện, viên mãn. Túc nghĩa là đầy đủ,
vẹn toàn (Kinh văn là Minh hạnh thành.)
5)
Thiện Thệ (S.Sugata), bậc “khéo léo vượt qua
mọi chướng ngại và ra đi một cách tốt
đẹp”, nghĩa là sau khi chứng đạo dùng
Nhất thiết trí hóa độ chúng sanh, thực hành Bát
thánh đạo rồi an trú Niết-bàn.
6)
Thế Gian Giải (S.Loka-vid), bậc thấu hiểu và rõ
biết (Giải) tất cả từ quá khứ, hiện
tại cho đến vị lai (Thế) ở trong mười
phương thế giới (Gian).
7)
Vô Thượng Sĩ (S.Anuttara), bậc tối tôn tối
thượng, không ai có thể hơn được.
8)
Điều Ngự Trượng Phu (S. Purusa-damya-sàrathi),
bậc có khả năng dùng các phương tiện
thiện xảo để điều phục, nhiếp hóa,
dẫn dắt (Điều Ngự) người tu hành (Trượng
Phu) khiến họ thành tựu giải thoát, chứng đắc
Niết-bàn (Trong phần kinh văn là Đạo pháp
ngự.)
9)
Thiên Nhơn Sư (S.Sàstà deva-manusyànàm), bậc thầy
của trời và người.
10)
Phật-Thế Tôn (S.Buddha-Bhagavat), bậc giác ngộ,
tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn và được
thế gian đều tôn kính.
[2]
Là năm phần hương dụ cho 5 phần Pháp thân (Phật
Quang Từ Điển):
1)
Giới thân (Sila-skandha); còn gọi là Giới uẩn,
Giới chúng, Giới phẩm, tức là thân ngữ
nghiệp vô lậu. Khi Thành tựu giới thì ba nghiệp
của thân miệng ý đều thanh tịnh.
2)
Định hương (Samàdhi-skandha); còn gọi Định
uẩn, Định chúng, Định phẩm. Tức là 3
Tam-muội: Không, Vô nguyện, Vô tướng. Thành tựu
Định nghĩa là thể nhập vào trạng thái 3 không,
xả ly tất cả sự chấp thủ vọng
niệm.
3)
Tuệ thân (Prajnà-skandha); còn gọi là Huệ uẩn,
Huệ phẩm, tức chánh kiến, chánh tri. Thành tựu
Tuệ là đạt được sự thấy và
hiểu biết đúng đắn; thông đạt tất
cả pháp tánh
4)
Giải thoát thân (Vimukti-skandha); còn gọi: Giải thoát
uẩn, Giải thoát chúng, Giải thoát phẩm, là
thắng giải tương ưng với chánh tri kiến.
Thành tựu Giải thoát là thành tựu tự thể
của Như lai, xa lìa những sự trói buộc,
giải thoát tất cả những sự trói buộc.
5)
Giải thoát tri kiến (Vimukti-jnàna-darsana-skandha); còn
gọi: Giải thoát sở kiến thân, Giải thoát tri
kiến uẩn, Giải thoát tri kiến chúng, Giải thoát
tri kiến phẩm. Thành tựu Giải thoát tri kiến
chứng đạt tận trí, vô sanh, chứng biết
tự thể xưa nay vô nhiễm, thật sự giải
thoát.
[3]
Đã thành A la hán thì được gọi là A la hán
quả, đang tu A la hán thì được gọi là A la hán
hướng, đã thành A na hàm thì được gọi
là A na hàm quả, đang tu A na hàm thì được
gọi là A na hàm hướng, đã thành Tư đà hàm
thì được gọi là Tư đà hàm quả, đang
tu Tư đà hàm thì được gọi là Tư đà
hàm hướng, đã thành Tu đà hoàn thì được
gọi là Tu đà hoàn quả, đang tu Tu đà hoàn thì
được gọi là Tu đà hoàn hướng.
Những bậc đã thành tựu bốn quả và đang
tu bốn quả được gọi là tám bậc, chia làm
bốn đôi gọi là tứ song bát bối (cattari
purisayugani attha purisapuggala.)
Nguồn
Thư viện Hoa sen