Khao khát cái tuyệt đối, khinh thường cái cái tương đối; mong cầu cái vĩnh viễn trường tồn, ruồng bỏ cái biến chuyển vô thường, người Viêt Nam nói riêng và người Á Châu nói chung đã được huân tập mấy ngàn năm trong một thái độ tư tưởng như trên, nên đã xem thường lịch sử, là một môn học theo sát sự biến chuyển vô thường của sự thế, mà mục đích là mong ghi chép một cách trung thành những gì đã mất hút trong bóng tối của thời gian.
New Page 1
Lịch Sử Phật Giáo Ấn Độ
Thích
Thiện Hoa
* Mở Đề
Khao khát cái tuyệt đối, khinh thường
cái cái tương đối; mong cầu cái vĩnh
viễn trường tồn, ruồng bỏ cái biến
chuyển vô thường, người Viêt Nam nói riêng và
người Á Châu nói chung đã được huân
tập mấy ngàn năm trong một thái độ tư tưởng
như trên, nên đã xem thường lịch sử, là
một môn học theo sát sự biến chuyển vô thường
của sự thế, mà mục đích là mong ghi chép
một cách trung thành những gì đã mất hút trong bóng
tối của thời gian.
Quan niệm khinh thường lịch sử
ấy đã đem lại cho chúng ta nhiều điều
tai hại không nhỏ. Chúng ta đã bỏ mất bao nhiêu
bài học quý giá mà ông cha chúng ta mua với một giá
rất đắt; chúng ta đã mất rất nhiều liên
lạc với quá khứ, tắt mất đường thông
cảm với người xưa,và đang lạc loài
trong hiện tại vì không biết nên bỏ con đường
nào và nên theo con đường nào. Người ta thường
nói rất đúng: một dân tộc không quá khứ, thì
cũng khó mà có tương lai.
Riêng trong phạm vi Phật giáo chúng ta, tìm
về cho đúng nguồn gốc, thử vạch lại
con đường đi truyền giáo của ông cha, xây
dựng lại mô hình của một thời đại huy
hoàng của Phật giáo, đó là những công việc vô
cùng khó khăn, nhọc mệt.
Nhưng mặc dù mệt nhọc, khó khăn, không
lẽ thấy vết xe đổ của người xưa
mà nay chúng ta không tránh, cứ nhắm mắt đi càn? Người
xưa đã xem thường lịch sử, ngày nay trái
lại, chúng ta phải dành cho nó một địa vị
quan trọng. Có thấy rõ được nguồn gốc,
sự phát triển, những thời đại thịnh
suy của môt Tôn giáo, chúng ta mới hiểu rõ được
giá trị chân thật của Tôn giáo ấy. Nhất là
nếu chúng ta là những người có nhiệm vụ
truyền bá giáo lý của Phật Đà, thì hơn ai
cả, chúng ta phải học lịch sử Đạo
Phật để tìm hiểu lẽ thịnh suy, nguyên nhân
những thành bại của công cuộc hoằng dương
chánh pháp trên khắp năm châu, hầu bắt chước
những điều hay có lợi cho Đạo, bỏ
những điều dở, có hại cho Đạo, để
Phật Pháp được hoằng truyền mãi mãi
với thời gian. máy khoan địa chất giá rẻ, máy khoan đập đá
Vậy trước tiên, chúng ta hãy trở
về nguồn, tuần tự đi theo bước chân trên
đường truyền giáo, từ khi Đức Giáo
chủ Thích Ca mới xuất thế ở Ấn Độ,
dần dần qua Trung Hoa, rồi đến Việt Nam,
để cuối cùng có một ý niệm tổng quát
về hiện tình Phật giáo ở nước nhà và trên
Thế Giới phức tạp ngày nay.
* Chánh Đề: Phật Giáo ở Ấn Độ
I. Sự Khai Nguồn Của Đức Giáo
Chủ Thích Ca
1. Tình trạng xã hội
đen tối và tư tưởng phức tạp ở
Ấn Độ khi đức Phật xuất thế
Xét về sự bất công trong xã hội trên
2500 năm trước đây, thì xã hội Ấn Độ
có lẽ là một trong những xã hội có một
chế độ xã hội và chính trị bất công
nhất. Dân chúng Ấn Độ thời bấy giờ
bị phân chia rất nhiều giai cấp khác nhau, tựu
trung có thể liệt vào những giai cấp chính sau đây:
a) Bà La Môn (Brahmanes) gồm những Giáo sĩ,
những người giữ quyền thống trị tinh
thần, phụ trách về lễ nghi, cúng bái. Họ
tự nhận mình là hạng cao thượng, sinh ra từ
miệng Phạm Thiên (Brahma) hay Phạm Thiên cầm cương
lãnh đạo tinh thần dân tộc, nên có quyền ưu
tiên được tôn kính, và an hưởng cuộc đời
sung sướng nhất.
b) Sát Đế Lỵ (Kastryas) là hàng vua chúa quý
phái, tự cho mình sinh từ cánh tay Phạm Thiên, thay
mặt cho Phạm Thiên nắm giữ quyền hành
thống trị dân chúng.
c) Vệ Xá (Vaisyas) là nhữnh hàng thương
gia chủ điền, tin mình sinh ra từ bắp vế
Phạm Thiên, có nhiệm vụ đảm đương
về Kinh tế trong nước (mua bán, trồng trọt,
thu huê lợi cho quốc gia ).
d) Thủ Đà La ( Souddras) là hàng hạ
tiện, nô lệ tin mình sinh ra từ gót chân Phạm Thiên,
nên thủ phận làm khổ sai suốt đời cho các
giai cấp trên.
Ngoài bốn giai cấp trên, còn có một
hạng người hà tiện nhất là giống
Ba
Ri
A (Pariahs) giống dân tộc mọi rợ, bị coi như
sống ngoài lề xã hội loài người, bị các
giai cấp trên đối xử như thú vật, vô cùng
khổ nhục, tối tăm.
Năm giai cấp này mặc y phục màu
sắc khác nhau. Mỗi giai cấp sống theo luật
lệ hệ thống cha truyền con nối, không
được thay đổi nghề nghiệp hay cưới
hỏi lẫn nhau, và không được di chuyển
chỗ ở khác. Theo luật Bà La Môn, chỉ ba giai
cấp trên có quyền đọc Kinh, học đạo, còn
hai giai cấp dưới thì đời đời chỉ
làm nô lệ cho ba giai cấp trên mà thôi.
Hạng Bà La Môn hưởng sung sướng nhàn
hạ bao nhiêu, thì đám người hà tiện ở dưới
lại khổ sở, nhục nhã bấy nhiêu. Sự
bất công xã hội thật không thể nào diễn
tả nổi. Giữa người với người,
thật không có một nhịp cầu thông cảm nào,
nguồn yêu thương tắc nghẽn, giai cấp này
đối với giai cấp khác là địch thủ mà
càng bóc lột được bao nhiêu là càng tốt
bấy nhiêu.
Về phương diện Tôn giáo, Triết
học, Tư tưởng thì xã hội Ấn Độ
thời bấy giờ cũng diễn ra một cảnh tượng
vô cùng hỗn tạp. Về tín ngưỡng người
thờ thần lửa, kẻ thờ thần núi, thần sông,
kẻ thờ thần gió, thần chớp, thần mặt
trời. Về triết học, kẻ cho rằng Phạm
Thiên là căn bản của vũ trụ, vạn hữu,
kẻ cho rằng đất là căn bản, kẻ cho
rằng nước là căn bản, kẻ cho rằng gió
là căn bản,... có phải đi xa hơn, từ cụ
thể đến trìu tượng, lập ra những
thuyết: thời gian luận, không gian luận, phương
hướng luận, chủ trương nhất nguyên,
nhị nguyên, đa nguyên,... Gồm một trăm phái khác
nhau, luôn luôn đả kích chống báng nhau.
Tóm lại, xã hội Ấn Độ lúc
bấy giờ là một xã hội về vật chất thì
đang rên siết dưới ách bất công, áp bức,
về tinh thần thì đang quay cuồng, điên đảo
trong những luồng tư tưởng lý thuyết
rối ren, tà vay. Xã hội ấy đang khao khát tình thương
và bình đẳng, đang mong chờ được chói
rạng dưới ánh sáng của trí huệ.
Trong hoàn cảnh ấy, Đức Phật Thích
Ca đã xuất hiện đúng lúc để cứu
vớt cõi đời sầu khổ.
2. Đức Phật Thích Ca, vị giáo chủ
của Đạo Từ bi và Trí huệ
a) Niên lịch Giáng Sinh.
Như chúng ta đã nói ở phần mở
đề, người Phật tử chúng ta không cho
vấn đề lịch sử là quan trọng; lại thêm
trải qua một thời gian lâu dài từ khi Đức
Phật xuât hiện đến nay, tài liệu bị
thất lạc nhiều, nên có nhiều thuyết khác nhau
về niên lịch Giáng Sinh của Đức Phật.
Tuy thế, ngày nay để được
thống nhất toàn vẹn về niên lịch, Phật giáo
thế giới họp tại Đông Kinh năm 1952, đã
thỏa thuận rằng ngày trăng tròn tháng hai của
xứ Ấn Độ (tức ngày rằm tháng tư âm
lịch) năm 624 trước Jésus Christ ra đời là ngày
Đản sanh của Đức Phật Thích Ca. Như
vậy, tính đến năm nay (1964) thì Đức
Phật Giáng sinh đã được 2588 năm (1964 + 624).
Nhưng nếu chúng ta thấy ghi Phật lịch 2508 (tính
đến năm Tây lịch là 1964) là vì Tổng hội
Phật giáo Quốc Tế lấy năm nhập Niết bàn
của Đức Phật làm năm đầu kỷ nguyên,
chứ không phải lấy năm sinh (2588 - 80 năm đời
Đức Phật =2508).
b) Quốc độ và dòng họ.
Thời bấy giờ xứ Ấn Độ
gồm nhiều tiểu quốc, khi hòa khi chiến với
nhau như đời Chiến quốc bên Tàu. Tuy thế,
đại cuộc vẫn thu về nước Ma Kiệt
Đà (Magatha) như nhà
Chu
ở Trung Quốc đối với các nước chư
hầu vậy. Nước này lớn nhất ở phía Nam
sông Hằng Hà (Gange) làm trung tâm cho toàn xứ Ấn Độ.
Ở phía Bắc xứ Ấn Độ, gần dưới
chân dãy núi Hy Mã Lạp Sơn (Bây giờ là nước Népal)
có một Quốc độ tên là Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu).
Vua trị vì nước này là Tịnh Phạn Vương
(Sudhodana) thuộc giai cấp Sát Đế Lỵ (Kastrya) dòng
Kiều Tất La (Gotama) là một đại quý tộc
ở Ấn Độ. Bà Hoàng hậu, vợ của vua
Tịnh Phạn là Ma Gia (Maha maya) đến 45 tuổi
mới có thai.
Theo tục lệ Ấn Độ, gần ngày
sinh, Hoàng hậu trở về nhà cha mẹ là vua A Nậu
Thích Ca (Anucakya) ở nước Câu Ly (Koli). Một
buổi bình minh, Hoàng Hâu ra dạo chơi trong vườn
hoa Lâm Tỳ ny (Lumbini) và sinh hạ Thái tử ở đấy.
Thái tử được đặt tên là Tất Đạt
Đa (Siddharta) và theo tục lệ Ấn Độ lấy
họ mẹ là Thích Ca (Cakya). Sau khi đã sanh Thái tử
Tất Đạt Đa được 7 ngày, Hoàng hậu
Ma Gia tạ thế. Em gái của Hoàng hậu là Ma Ha Ba Xà
Ba Đề (Maha Prajapati) thay chị nuôi Thái Tử Tất
Đạt Đa cho đến lớn.
Thái tử Tất Đạt Đa, sau này
tức là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, vị Giáo
chủ từ bi và trí huệ của Đạo Phật.
c) Hình tướng và tư chất
Hình tướng của Thái Tử có những nét
đặc biệt hơn người thường: Ngài có
ba mươi hai tướng quý và tám mươi vẻ
đẹp. Cho nên khi xem tướng Ngài, Đạo sĩ
A Tư Đà (Asita) đã tiên đoán sau này Ngài sẽ thành
Phật, làm chủ cả tam thế, dắt đường
chỉ nẻo cho chúng sinh thoát khỏi bể khổ luân
hồi.
Thuở thơ ấu, tư chất thông minh và
tánh tình đức độ của Ngài đã biểu
lộ một cách rõ rệt. Những Đạo sĩ thông
thái, những Võ sĩ tài danh điều được
Tịnh Phạn vương mời đến dạy cho Thái
Tử; và chẳng bao lâu Thái Tử đã trở thành
một vị văn võ toàn tài, không ai sánh kịp.
Cùng một nhịp với tài năng, đức
độ của Ngài cũng được phát triển
một cách vô cùng nhanh chóng và sâu rộng. Tình thương
của Ngài lan tràn, bao phủ tất cả mọi vật
mọi người.
Và cũng do tư chất thông minh nhìn thấy
rõ được tánh cách giả dối, vô thường
của sự thế, và lòng thương vô hạn, không
thể ngồi yên để nhìn thấy sự rên
siết, khổ đau của cõi đời, nên tâm
hồn của Ngài không bao giờ được yên
ổn. Ngày đêm, Ngài luôn luôn nghĩ đến phương
pháp cứu khổ cho chúng sinh.
Vua Tịnh Phạn, để làm khuây khỏa lòng
con, truyền dựng lên một cung điện nguy nga, bày
đủ trò đàn ca múa hát bao vây lấy Thái Tử, và
còn cưới cho Ngài một người vợ tuyệt
thế giai nhân là nàng Da Du Đà La (Yosodhara) nhưng Thái
Tử vẫn không khuây nổi buồn mênh mông của cõi
thế.
d) Xuất gia
Năm Ngài mười chín tuổi (có chỗ nói
29 tuối) sau khi đã để lại cho Tịnh
Phạn vương một người cháu nội là La
Hầu La (Lahula). Thái Tử quyết định rời
bỏ Hoàng gia, từ bỏ cuôc đời vinh hoa phú qúy,
trốn ra khỏi hoàng thành, cắt tóc vào rừng sâu mong
được yên tĩnh để tìm nghĩ phương
pháp cứu độ chúng sinh thoát khỏi vòng khổ
ải và đưa họ lên bờ giác ngô vĩnh
viễn yên vui. Ban đầu Ngài phải đi tìm học
hỏi với những đạo sĩ danh tiếng
nhất Ấn Độ thời bấy giờ, nhưng
rồi Ngài nhận thấy chân lý và lối tu hành của
họ cũng không có gì là siêu thoát. Từ đó, Ngài
đi vào ẩn trong dãy núi Tuyết Sơn, phải tự
mình tu luyện để tìm ra cái đạo giải thoát
như ý Ngài mong muốn. Trong sáu năm trời tu khổ
hạnh, Ngài cũng chưa thu thập được
kết quả gì khả quan. Bấy giờ, Ngài mới
đi đến núi Tượng Đầu (Gajasirsa) bên
bờ sông Ni Liên Thuyền. Sau khi tắm rửa xong Ngài
thọ bát cháo sữa (đề hồ) của mấy nàng
mục nữ cúng. Rồi Ngài đi đến dưới
gốc cây Tất Bát La (Pippale, sau này người đời
gọi là cây Bồ đề nghĩa là cây giác ngộ,
để kỷ niệm sự giác ngộ của Đức
Phật dưới gốc cây ấy). Ngài ngồi
thiền định ở đó và thề rằng: "Nếu
ta ngồi đây mà không chứng được đạo
quả, thì dù thịt nát xương tan, ta quyết không
bao giờ đứng dậy".
d) Thành đạo và thuyết pháp độ
sinh.
Ngài ngồi thiền định dưới
gốc cây Tất Bát La, cho đến ngày thứ bốn mươi
chín, lúc sao mai vừa mọc, thì Ngài hốt nhiên đại
ngộ, thấy được chân lý của vũ trụ
và nguồn gốc sinh tử của chúng sinh. Ngài đã thành
Phật với danh hiệu là Phật Thích Ca Mâu Ni (Sakya
Muni).
Sau khi thành đạo trong khoảng thời gian
bốn mươi chín năm (Có chỗ chép là bốn mươi
lăm năm) đức Phật chu du khắp cả các lưu
vực sông Hằng, đem đạo vô thượng
của Ngài giáo hóa chúng sinh, không phân biệt già trẻ,
nam nữ, giàu nghèo, sang hèn, màu da, chủng tộc, trí
thức hay ngu si.
Nhờ lòng từ bi không bờ mé, đức
hy sinh rộng lớn vô biên, Ngài đã giảng nói pháp trên
năm trăm hội, hóa độ vô số quần sinh,
thoát vòng mê mờ khổ não. Và do đó, đạo
Phật được thành lập trên cõi đời.
e) Phật nhập Niết bàn.
Vào năm 554 năm trước Tây lịch (tính
đến năm 1964 tức là: 1964+554=2508 năm) Đức
Phật bây giờ đã 80 tuổi. Nhận thấy chí
nguyện của mình đã thực hiện xong, nhiệm
vụ độ sinh của mình đã đầy đủ,
một hôm, đức Phật cho hội các đệ
tử của Ngài lại, ban những lời di chúc cặn
kẽ, rồi từ giã cõi đời một cách bình
thản, giản dị móc ở giữa hai cây bông vải
(Sala) ngoài châu thành Câu Thi La (Kusivagara)
Như thế ấy, một cuộc đời
vô cùng vĩ đại đã xuất hiện và biến
ẩn như một luồng ánh sáng mầu nhiệm khi
đã đánh dấu ba giai đoạn lớn một cách
vô cùng giản dị và đầy ý nghĩa:
Ra đời bên cạnh một gốc cây,
Thành đạo bên một gốc cây,
Và lìa đời ở giữa hai cành cây!
II. Lịch Sử Truyền Bá Phật Giáo
Tại Ấn Độ
1. Bốn thời kỳ
kiết tập Kinh điển
Bốn tháng sau khi Đức Phật nhập
Niết bàn, Ngài Ma Ha Ca Diếp (Maha Kasypa) thay Phật
thống suất tăng chúng đã triệu tập một
hội nghị gồm khoảng 500 đại đệ
tử của Phật, ở thành Vương Xá (Rajagrika)
để tụng lại những giáo lý mà Đức
Phật đã dạy. Trong hội nghị đầu tiên này,
Ngài Ma Ha Ca Diếp được suy tôn ngồi ghế
chủ tọa; Ngài A Nan, là vị đệ tử thường
theo hầu Phật, nghe nhiều và nhớ lâu, được
cử ra tụng lại những lời dạy của
Phật; còn Ngài Ưu Ba Ly (Upali) là vị đệ tử
thông suốt và nghiêm trì giới luật nhất,
được cử ra tụng giới luật. Hội
nghị này đã kết thúc sau bảy tháng làm việc và
500 vị đại đệ tử đều công
nhận đó là những lời chân thật của
Phật.
Đại hội này được mệnh
danh là "Kỳ kết tập thứ nhất ".
b) Kỳ kết tập thứ hai. Khoảng
một trăm năm sau khi Phật nhập diệt, vì có
sự bất đồng về giới điều, nên tăng
chúng chia làm hai nhóm, họp riêng ở hai thành Vaisali và Vàjji.
Nhóm tăng sĩ họp ở thành Vaisali do
sự triệu tập của Ngài trưởng lão Yasa
thọ 165 tuổi, gồm có 12. 000 Tăng sĩ, nhưng
trong số ấy chỉ có 700 vị lão thành mới có
quyền biểu quyết. Hội nghị này họp dưới
quyền chủ tọa của Ngài Revata và đồng thanh
biểu quyết: "Không nên sửa đổi cho sai
những điều luật của Phật đã
truyền dạy, mặc dù Đức Thế Tôn đã có
di huấn rằng nếu chư Tăng cùng đồng ý
nhau là thấy điều luật nào của Như Lai
đã chế định là ít quan trọng và không thể
thụ trì được nữa, thì được phép
sửa chửa".
Trong khi ấy thì nhóm Tăng sĩ ở thành
Vajji họp dưới quyền chủ tọa của đại
đức Vajjiputra lại chấp thuận. Trong kỳ
kết tập thứ hai này chỉ đặt trọng tâm
trong việc giải quyết về giới luật mà thôi.
Tuy thế, Tăng đồ cũng chia thành hai phái rõ
rệt. Phái do Ngài Yasa triệu tập và giữ đúng
giới luật của Phật, thì gọi là phái nguyên
thủy (Théravadins) hay thượng tọa bộ.
Phái do Ngài Vajjiputra sửa đổi mười
điều luật của Phật thì gọi là phái
Tiến thủ, hay là Đại chúng bộ (Mahasanghikas).
Từ đấy, Phật giáo chia ra hai phái rõ
rệt và là cội rễ cho hai mươi tôn phái sau này.
c) Kỳ kết tập thứ ba: Hơn hai
thế kỷ sau ngày Phật nhập diệt (274 năm trước
Tây lịch), Hoàng Đế A Dục lại triệu
tập 1000 vị Đại trưởng lão uyên thâm để
kết tập Kinh điển tại thành Pataliputra (tức
là Bihar và Patra ngày nay) duới quyền chủ tọa
của Ngài Mục Liên Đế Tu (Mogaliputta Tissa). Sau chín
tháng làm việc, hội nghị đã hoàn thành công tác
kiết tập Kinh điển. Ngoài ra, lại còn chỉnh
đốn Tăng giới, bài trừ những hạng Tu sĩ
phạm trai, phá giới, vô kỷ luật.
d) Kỳ kết tập thứ tư.
Vào khoảng 600 năm sau khi Phật nhập
diệt, nghĩa là vào thế kỷ thứ nhất Tây
Lịch, Vua Ca Ni Săc Ca (Kaniska) một vị Đại
Đế Ấn Độ, có tâm hộ pháp chẳng thua gì
Vua A Dục, đã triệu tập 500 vị Bồ Tát, 500
vị Tỳ kheo cùng 500 người tại gia cư sĩ,
tại thành Ca Thấp Di La để kết tập Kinh
điển dưới quyền chủ tọa của hai Ngài
Hiếp Tôn Giả và Thế Hữu.
Kỳ kết tập này gọi là kỳ
kết tập lần thứ tư.
Trong bốn kỳ kết tập này thì hai
kỳ đầu chưa có sự biên chép, nghĩa là
chỉ đọc tụng lại, xem lời lẽ nào là
của Phật đã nói ra, hay xét những ý nghĩa nào là
đúng với chánh pháp.
Đến thời kỳ thứ ba và thứ tư
mới dùng đến văn tự để biên chép thành
sách vở. Trong sự biên chép này, chư Tăng chia làm
hai phái: Phái
Nam
thì ghi bằng văn Pali, còn phái Bắc thì ghi bằng văn
Phạn.
2.
Nam
phương và Bắc phương Phật giáo
Như trên đã nói, vì Kinh điển
được ghi chép bằng hai thứ văn: Pali và
Phạn, nên những xứ dân chúng nói tiếng Pali thì
Kinh điển bằng Pali được truyền bá, còn
những xứ dân chúng nói tiếng Phạn thì Kinh điển
bằng Phạn văn được truyền tụng.
Nếu lấy Trung Ấn Độ làm cứ điểm,
thì những xứ phía
Nam
Ấn Độ và lan ra đến những xứ Tích
lan, Miến điện, Thái lan, Ai lao, Cao miên... đều
theo Kinh điển Pali, nên cũng gọi là
Nam
phương Phật giáo.
Còn những xứ thuộc Trung Ấn Độ,
Bắc Ấn Độ và lan ra đến Nepal, Tây
Tạng, Trung Hoa, Việt Nam, Cao Ly, Nhật Bổn... thì
lại căn cứ theo Kinh điển chữ Phạn, và
được gọi là Bắc phương Phật giáo.
Nam
phương
hay Bắc phương Phật giáo đều thờ chung
một đấng giáo chủ là Đức Phật Thích
Ca và đều tuân theo những yếu điểm mà
Phật đã dạy. Tuy thế, tùy theo căn cơ, tâm lý
và ảnh hưởng văn hóa cùng đời sống
của dân chúng có khác nhau giữa Nam và Bắc phương
mà phương pháp tu hành và sự phát huy giáo lý có điểm
dị và đồng. Bắc phương phần nhiều
đi về lối phát triển, phóng khoáng không câu
nệ về hình thức.
Nam
phương thì lại có tánh cách thủ cựu, trung thành
với giáo lý Nguyên thủy, tôn trọng hình thức. Do
đó mà có hai phái: Tiểu thừa Phật giáo ở
Nam
phương và Đại thừa Phật giáo ở
Bắc phương.
3. Sự phát triển của Đại thừa
và Tiểu thừa
Ở đây vì chúng ta còn đang ở trong
phần lịch sử truyền bá Phật giáo, nên chưa
vội đề cập đến sự sai khác giữa
giáo lý Đại thừa và Tiểu thừa. Chúng ta hãy
khu biệt vấn đề và nói đến sự phát
triển của hai phái ấy ở Ấn Độ như
thế nào mà thôi.
a) Sự phát triển của các bộ phái
Tiểu thừa.
Như chúng ta đã biết, nguyên nhân Tiểu
thừa chia ra làm hai bộ phái, vì trong kỳ kết
tập lần thứ hai, về vấn đề giới
luật có chỗ bất đồng, Tăng chúng mới
chia ra làm hai phái: Một phái gồm các vị Trưởng
lão gọi là Thượng tọa bộ; và một phái
gồm phần nhiều các vị Tăng sĩ trẻ
tuổi, nhưng rất đông đảo, gọi là Đại
chúng bộ.
Trong khoảng thời gian 100 năm sau kỳ
kết tập lần thứ hai ấy, Đại chúng
bộ lần lượt chia ra tám bộ phái như sau:
1/ Nhất thuyết bộ
2/ Thuyết xuất thế bộ
3/ Kê dẫn bộ
4/ Đa văn bộ
5/ Thuyết giả bộ
6/ Chế đa bộ
7/ Tây sơ bộ
8/ Bắc sơn bộ
Như thế là từ một bộ phái chính là
Đại chúng bộ mà lần lượt chia làm tám chi
bộ (cộng là 9 bộ). Trong lúc ấy thì bên Thượng
tọa bộ ban đầu sống một cách yên ổn
trong núi Ca Thấp Di La, nhưng theo với thời gian, cũng
phân phái dần, và cuối cùng gồm những bộ như
sau:
1. Thuyết nhứt thế hữu bộ
2. Độc tử bộ
3. Pháp thượng bộ
4. Hiền vị bộ
5. Chánh thượng bộ
6. Mật lâm sơn bộ
7. Hóa địa bộ
8. Pháp tạng bô
9. Âm quang bô
10. Kinh lượng bộ
11. Thượng Tọa Bộ
Tóm lại, bên phía Thượng Tọa bộ,
từ căn bản (Thương Tọa bộ) đến
chi nhánh, gồm cả thảy 11 bộ.
Nếu tổng cộng cả Thượng
Tọa bộ và Đại chúng bộ, thì Tiểu
thừa gồm cả thảy là 20 bộ.
b) Sự phát triển của phái Đại
thừa.
Mặc dù trong giáo lý của Đức Phật
có gồm cả ý nghĩa Tiểu thừa lẫn Đại
thừa, nhưng trong bốn, năm thế kỷ đầu
của Phật lịch, vì căn cơ của Tăng sĩ
và tín đồ Ấn Độ thích hợp với
Tiểu thừa hơn, nên giáo phái Tiểu thừa
được phát triển mạnh. Nhưng từ thế
kỷ thứ nhất Tây lịch, hay thứ sáu Phật
lịch, giáo lý Đại thừa bắt đầu phát
triển mạnh ở phía Bắc Ấn Độ và
dần dần lan rộng ở Bắc phương.
Công đầu tiên, nhờ đó Đại
thừa Phật giáo được phát triển mạnh là
của Ngài Mã Minh.
Ngài Mã Minh, người ở Bắc Ấn
Độ, sanh vào thế kỷ thứ nhất Tây
lịch, lúc đầu theo ngoại đạo, có tài
biện bác, sau vì biên luận thua Ngài Hiếp Tôn Giả,
nên mới quy y theo Phật giáo. Chính Ngài là tác giả
bộ luận Đại thừa Khởi tín, Đại
thừa Trang nghiêm Kinh luận, và nhờ sự hộ pháp
đắc lực của Vua Ca Ni Sắc Ca, Ngài đã
phục hưng và truyền bá môt cách mạnh mẽ giáo lý
Đại thừa.
Một trăm năm sau, nối tiếp sự
nghiệp của Ngài Mã Minh, có Ngài Long Thọ ở nước
Tỳ Dạt La (Nam Ấn Độ) có Thiên Tư rất
tốt, lúc còn nhỏ đã thông hiểu những Kinh giáo
của Bà La Môn, Phệ Đà..., tinh thông cả Thiên văn,
địa lý, y học, số học. Ban đầu Ngài tu
theo Tiểu thừa, sau Ngài nghiên cứu giáo lý Đại
thừa và làm ra những bộ luận Trung quán, Thập
nhị môn, Trí độ... để phá trừ tà
chấp, chỉ rõ chánh lý Đại thừa, và đi chu
du các nước để hàng phục ngoại đạo.
Đại thừa nhờ đó ngày một thêm tỏ
rạng.
Nối tiếp Ngài Long Thọ có hai vị đệ
tử là Ngài Long Trí và Đề Bà là những người
có công lớn trong việc phát dương Đại
thừa.
Sau khi Phật nhập Niết bàn hơn 900 năm,
nghĩa là khoảng thế kỷ thứ tư Tây
lịch, có hai anh em Ngài Vô trước và Thế thân, sanh
ở Bắc Ấn Độ, trước theo Bà La Môn giáo,
sau quy y theo Phật.
Ngài Vô trước là anh, giác ngộ giáo lý
Đại thừa trước, còn Ngài Thế Thân ban
đầu tu học giáo lý Tiểu thừa, sau nhờ anh là
Ngài Vô trước hướng dẫn sang Đại
thừa. Từ đó hai anh em tích cực phát dương
giáo nghĩa Đại thừa Duy thức và làm ra các
bộ: Hiển Dương Thánh giáo luận, Nhiếp Đại
thừa luận... cả hai Ngài đều chủ trương
về Duy thức, biên rõ cái lý:"Tam giới duy tâm,
vạn pháp duy thức". Do đó, học thuyết
của hai Ngài gọi là Pháp tướng Duy thức
học. và hai Ngài được xem như là khai tổ
của Pháp tướng Duy thức học.
Ảnh hưởng của hai Ngài nối
tiếp lan rộng sang đến thế kỷ thứ 10 Tây
lịch và làm cho Đại thừa Phật giáo ở
Ấn Độ được phát triển một cách
rực rỡ, và lu mờ giáo lý Tiểu thừa.
4. Sự suy tàn của Phật giáo tại
Ấn Độ
Vào khoảng 2000 năn sau khi Phật nhập
diệt, đạo Phật ở Ấn Độ lu mờ
dần và hầu như không còn vang bóng gì nữa. Nguyên
nhân của sự suy tàn ấy có thể quy vào ba lý do sau
đây:
a. Đạo Bà La Môn, trước thời kì
Đức Phật xuất hiện là một Tôn giáo độc
tôn ở Ấn Độ. Nhưng từ khi đạo
Phật ra đời và càng ngày càng được phát
triển mạnh vì tinh thần từ bi bình đẳng và
ánh sáng rực rỡ của trí huệ Đạo Bà La Môn
mất dần thân thế và lui mãi vào trong bóng tối. Nhưng
những vị lãnh đạo Tôn giáo ấy không ngã lòng,
một mặt họ lo tu chỉnh giáo lý của họ,
một mặt họ thanh lọc hàng ngũ và dựa vào
thế lực của chính quyền, dần dần họ
chiếm lại địa vị cũ và hết sức bài
xích Phật giáo.
b. Hồi giáo là một Tôn giáo nguyên ở
Thổ Nhĩ Kì (Turquie) khi đã xâm nhập Ấn Độ
bằng quân sự, đã dùng những thủ đoạn
khốc liệt để hủy diệt chánh pháp, tàn
hại Phật giáo bằng cách đập Tháp, phá Chùa,
đốt Kinh điển, giết hại Phật tử.
Do đó, đạo Phật hầu như không còn chỗ
đứng ở Ấn Độ nữa.
c. Lý do thứ ba là lý do nội lai. Nếu
chỉ vì hai lý do ngoại lai nói trên, thì đạo
Phật ở Ấn Độ không dễ gì bị tiêu
diệt một cách nhanh chóng như thế. Sự suy
sụp Phật giáo ở Ấn Độ còn là sự suy
đồi của Tăng giới, Phật tử thiếu
tu thiếu học , thiếu tinh thần tiến thủ
của giới lãnh đạo Phật giáo Ấn Độ
lúc bấy giờ nữa.
Nếu sự phá phách ở bên ngoài không có
sự gián tiếp tiếp tay phá hoại ở bên trong, thì
Phật giáo ở Ấn Độ không diễn ra cái
cảnh suy tàn hoang vắng như chúng ta đã thấy
trong năm thế kỷ trước đây.
* Kết Luận
Đức Phật đã dạy: có sanh thì có
diệt, có thành thì có hoại. Vậy sau mười lăm
thế kỷ hưng thịnh, Phật giáo ở Ấn
Độ dần dần suy đồi cũng là một
sự thường, . Luật vô thường chi phối
tất cả những sự việc của đời này.
Và cũng do cái luật biến dịch, chỗ
này khuyết thì chỗ kia bồi, làn sóng lặn ở
chỗ này để hưng ở chỗ khác. Đạo
Phật đã chuyển đi từ trung tâm điểm là
Ấn Độ để lan ra hưng thịnh ở nước
khác, trước tiên là chung quanh Ấn Độ, rồi
sang Trung Hoa và dần dần lan ra khắp thế giới.